baophutho.vn Đó
là một trong những mục tiêu quan trọng mà tỉnh đặt ra từ nay đến năm
2030 nhằm cụ thể hóa các nội dung Đề án phát triển cây công nghiệp chủ
lực trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2026 - 2030. Từ đó, phát huy
tiềm năng, lợi thế, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ môi
trường, nâng cao đời sống cho người dân.
Nhìn lại kết quả giai đoạn 2021 - 2025
Sau
hợp nhất, tỉnh Phú Thọ có tổng diện tích chè khoảng 15.000 ha, sản
lượng trên 183.000 tấn; là 1 trong 3 địa phương đứng đầu cả nước về diện
tích và sản lượng chè.
Cùng với những chuyển biến
tích cực về tư duy, nhận thức của người trồng chè, các vùng sản xuất tập
trung và liên kết theo chuỗi giá trị cũng được nhân rộng. Trên địa bàn
tỉnh hình thành nhiều vùng sản xuất lớn, thực hiện liên kết với diện
tích khoảng 5.800 ha. Qua áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hóa trong
sản xuất chè đã góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm, nâng cao năng suất,
chất lượng và giá trị sản phẩm. Hệ thống cơ sở chế biến chè phát triển
với sản lượng chế biến bình quân khoảng 60 nghìn tấn/năm. Cơ cấu sản
phẩm chè qua chế biến có sự dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ chè xanh
và chè khác (ô long, ướp hương, matcha...). Công tác quản lý, xây dựng
thương hiệu, nhãn hiệu chè được quan tâm, nhiều sản phẩm được cấp nhãn
hiệu chứng nhận “Chè Phú Thọ”. Toàn tỉnh hiện có 39 sản phẩm chè đạt
OCOP từ 3 sao trở lên, trong đó có 17 sản phẩm OCOP 4 sao, 2 sản phẩm
OCOP 5 sao.
Đáng chú ý, nhiều vùng chè trên địa bàn
tỉnh đã gắn với du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng như: Pà Cò, Võ
Miếu, Long Cốc, Xuân Đài... Qua đó, góp phần nâng cao uy tín, giá trị
kinh tế, sức cạnh tranh của các sản phẩm chè trên địa bàn. Với hiệu quả
sản xuất chè ngày càng được nâng cao, nhiều hộ gia đình vươn lên làm
giàu từ cây chè, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội và
xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Lãnh đạo Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khảo sát, đánh giá tình hình phát triển vùng trồng chè tập trung tại xã Long Cốc.
Bên
cạnh những kết quả đạt được, tình hình phát triển sản xuất chè còn một
số tồn tại, hạn chế: Công tác chỉ đạo của một số địa phương còn chưa
được quan tâm; sản xuất quy mô nông hộ nhỏ lẻ, thiếu liên kết; còn hạn
chế trong nhận thức về sản xuất hàng hóa, an toàn thực phẩm; liên kết
giữa phát triển vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến còn thiếu chặt chẽ;
tỷ lệ cơ cấu giống chè phục vụ chế biến chè xanh chất lượng cao còn
thấp, sản phẩm chủ yếu là chè đen, chế biến thô, hiệu quả kinh tế chưa
cao; diện tích chè Shan tuyết chưa được quan tâm bảo tồn, khai thác hợp
lý, chưa trở thành sinh kế chủ lực cho đồng bào dân tộc vùng cao; hoạt
động của các hợp tác xã, tổ hợp tác còn mang tính hình thức; thu hút
doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ
còn khó khăn...
Xây dựng ngành chè thành ngành hàng chủ lực, có giá trị gia tăng cao
Theo
đồng chí Nguyễn Hồng Yến - Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ
thực vật (Sở Nông nghiệp và Môi trường), để khắc phục những tồn tại, hạn
chế và nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất, cần có kế hoạch phát
triển cây chè bền vững và đa giá trị.
Tỉnh phấn đấu
duy trì diện tích chè hiện có, năng suất chè búp tươi bình quân 135
tạ/ha, sản lượng 189 nghìn tấn. Khoảng 1.500 ha chè giống cũ, già cỗi
được trồng lại, thay thế bằng những giống chè mới. 90% diện tích chè ứng
dụng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp IPHM; 80% diện tích chè được
áp dụng quy trình sản xuất tốt, an toàn (GlobalGAP, Rainforest Alliance,
VietGAP, hữu cơ...); trên 70% diện tích sản xuất chè tập trung được
quản lý, cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói, truy xuất nguồn gốc sản
phẩm. Tăng thêm tối thiểu 5 tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã đủ điều
kiện và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhãn hiệu chứng nhận “Chè
Phú Thọ”. Duy trì sản phẩm chè OCOP hiện có, trong đó có 2 sản phẩm
được chứng nhận OCOP 5 sao. Bảo tồn các khu vực có quần thể chè Shan
tuyết cổ thụ khoảng 5.000 cây; trồng thâm canh khoảng 400 ha chè Shan
tuyết. Xây dựng các vùng sản xuất chè an toàn, liên kết sản xuất, chế
biến; hình thành và phát triển từ 5 điểm quảng bá văn hóa chè Đất Tổ gắn
với phát triển du lịch.
Để đưa ngành chè trở thành
ngành hàng chủ lực, có giá trị gia tăng cao, tỉnh định hướng đối với
vùng sản xuất sẽ giữ ổn định vùng nguyên liệu chè đen với diện tích
khoảng 8.000 ha; vùng nguyên liệu chè xanh, chè chất lượng cao khoảng
5.500 ha thuộc các hợp tác xã, tổ hợp tác; vùng nguyên liệu chè Shan
tuyết tập trung khoảng 500 ha. Phát triển các vùng sản xuất chè theo
hướng sinh thái gắn với phát triển du lịch văn hóa, nông nghiệp, làng
nghề.
Trong chế biến sản phẩm, bố trí điểm sơ chế
chè cho từng vùng nguyên liệu tập trung, đảm bảo tiến độ thu hái và sơ
chế nguyên liệu ngay trong ngày; khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở
đổi mới dây chuyền, thiết bị chế biến hiện đại, chế biến sâu, đảm bảo an
toàn thực phẩm; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn
quốc gia và quốc tế; thực hiện chứng nhận hệ thống quản lý tiên tiến
ISO, HACCP; tiếp tục đầu tư công nghệ, thiết bị hiện đại để nâng cao
chất lượng sản phẩm chè; đa dạng hóa sản phẩm chè và phát triển các sản
phẩm làm nguyên phụ liệu cho ngành công nghiệp thực phẩm, mỹ phẩm, y tế.
Về
thương mại, tiếp tục hỗ trợ tạo lập, quản lý, khai thác và phát triển
nhãn hiệu, thương hiệu, sở hữu trí tuệ cho các sản phẩm chè; tăng cường
xúc tiến xây dựng, đăng ký nhãn mác hàng hóa, chuẩn hóa chất lượng sản
phẩm để các doanh nghiệp chế biến của tỉnh được gắn “Thương hiệu Quốc
gia chè Việt Nam”; đăng ký bảo hộ sở hữu trí tuệ nhãn hiệu chứng nhận
“Chè Phú Thọ” tại một số thị trường nước ngoài tiềm năng như: Mỹ, EU,
Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Quốc...